Lẽ ra phải gọi chuyện này mà MỸ TỤC. Anh phạm gọi thế ! Nhưng là tán từ chuyện
của anh ra nên sợ gọi mỹ tục anh chị em lại phản đối , có người còn bảo mỹ tục
là tục của Mỹ thì biết giải thích thế nào.
Đọc chuyện của Phạm nhiều đâm nghiện, nghiện thì mỗi lần đọc là thấy đã. Mơ ước
gặp Phạm. Một hôm gặp thật gặp ngay xóm Lốc đơn sơ này. Vừa chào anh,
Mình cũng lễ phép hỏi anh về sự giao lưu văn hóa của xóm. Anh bình thản, ngước
đôi mắt chẳng biết mù hay sáng; "Chết chết việc văn hóa thì hỏi người cao tuổi
chứ hỏi tôi chẳng đặng giả nhời! Khó chết đi được."
Anh còn chưa nói xong, thì con bé cháu ngoại chạy đến hỏi anh mượn cái chìa
khóa nhà xí, để đi ị… Ôi! ở đây nhà xí mà cũng phải khóa hả anh?
Anh lại chậm rãi : Phải khóa chứ . Không khóa sao được,
thậm chí phải làm cả nhà xí bí mật để đề phòng ăn trộm. Kẻ xấu ở đây nhiều và
cứ nhơn nhơn. Làng này có truyền thống đi ỉa phải dấu cứt. Chán bỏ mẹ, mà hình như anh chưa nghe nói chuyện này à!
Lạ thật mình lấy làm lạ, chẳng lẽ con người của làng này có dấu ấn về nguồn gốc
của loài mèo. Hóa ra cái gì cũng có sự tích của nó cả. Sau đây là trích nguyên
văn lời anh Phạm kể về sự tích lạ kì này nha. Mình chỉ chấm phảy để người đọc
đỡ mệt, chứ khi kể Anh không nói chấm hay phảy gì:
Xưa có một bloger, ấy chết Tu hành gia chứ. Bình sinh tấp nập kẻ hầu người hạ,
ngày ngày toàn ăn thịt cá, lại hưởng không thiếu gì lạc thú trên đời. Bỗng thời
thế đổi thay, gia tài khánh kiệt, kẻ hầu người hạ bỏ đi hết cả. Từ đó chỉ còn
biết ăn rau cỏ qua ngày. Tu hành gia phẫn chí bỏ làng ra đi, sang tận bên Tàu,
tìm đến thiền sư Triều Châu xin học đạo. Các đệ tử thấy tu hành gia người
Annamits toàn thân tróc ghẻ, người ngợm hôi hám có ý không ưa, xui sư đuổi đi.
Sư nói:
- Cứ gì hôi hám. Hễ có duyên khắc ngộ được đạo.
Các đệ tử hỏi; vậy
ông ấy có duyên gì? Sư đáp:
- Duyên đọc được bụng dạ của kẻ khác.
Rồi cho xuống tóc,
đặt pháp hiệu. Song mấy năm trời không nhìn ngó gì đến, cũng không hề giảng cho
một câu, chỉ cho phép cắp tráp theo hầu như một chú tiểu. Một hôm thầy trò đang
đi đường, Tu hành gia nhìn thấy một con trâu đang ỉa bãi phân to tướng, trong
lòng nổi tâm cơ, bèn buột miệng hỏi:
- Thưa… Phật pháp là cái gì vậy?
Sư hỏi lại:
- Ngày trước ngươi toàn ăn thịt cá, vậy ngươi ỉa ra cái gì?
- Ỉa ra cứt“ Tu hành gia trả lời ngay.
- Thế lúc chỉ ăn rau cỏ, ngươi ỉa ra cái gì? Sư hỏi tiếp.
- Cũng… cứt Tu hành gia ngập ngừng.
- Pháp đấy! Pháp đấy. Sư nói liền hai tiếng.
Tu hành gia hoát
nhiên đại ngộ. Trí huệ rực rỡ, Tu hành gia trở thành thiền sư. Ngài tìm về
làng, lập một chiếc am nhỏ, hàng ngày đọc kinh, thiền định… rồi “hóa" ngay
tại đó. Lâu dần cỏ dại trùm kín, chiếc am trở thành hoang phế. Một hôm có anh
đánh dậm đi qua bỗng nổi cơn đau bụng, bèn chui vào giữa chỗ ấy ỉa một bãi. Tối
hôm đó về nhà, đang ngủ, anh đánh dậm bỗng thấy một bóng người bước vào nhà bảo:
- Ngươi sắp bị mọc một khối u ở trong bụng mà chết. Hãy
uống một bát nước ở cái giếng chỗ ta thì sẽ khỏi.
Anh đánh dậm không
tin, hỏi lại:
- Làm sao ông biết?
- Xem cứt ngươi ta biết – người kia trả lời xong biến mất.
Anh đánh dậm toát mồ hôi, giật mình. Hóa ra một giấc mơ. Chợt nhớ
việc ỉa bậy ban ngày, anh chàng cũng thấy hoảng, nửa tin nửa ngờ. Khoảng tháng
sau, anh ta cảm thấy có cục chướng lên giữa bụng, ăn uống không tiêu. Cái bụng
trương phềnh lên, cứng ngắc, từ đó nằm một chỗ. Vợ con anh ta mời hết thầy
thuốc này đến thầy thuốc khác. Song ai cũng lắc đầu, bảo anh sắp chầu ông bà
ông vải đến nơi.
Về phần anh đánh dậm,
thì biết rằng mình đã ỉa bậy vào chỗ thiêng nên bị thánh vật. Khi mười phần đã
chết đến chín, anh ta phều phào kể lại cho vợ nghe về giấc mơ hôm trước. Người
vợ lập tức tìm đến chỗ đã từng có cái miếu. Phát cây vạch cỏ mãi, quả nhiên có
một cái giếng sâu hút, nước trong vắt. Nàng múc một bát đem về cho chồng uống.
Không ngờ bát nước hiệu nghiệm thật. Anh chồng uống vào đến đâu, bụng réo ùng
ục đến đấy. Khối u xẹp dần. Ba ngày sau hết hẳn.
Dân làng cho rằng vị thiền sư của làng đã hiển linh,
bàn nhau kẻ góp công người góp của làm một ngôi đền tại ngay chỗ đó gọi là miếu
“Cứt”. Cái tên độc nhất vô nhị trên thế gian này.
Miếu ấy thiêng, cầu gì được nấy. Có điều đồ cúng
không dùng thứ gì khác ngoài… cứt. Ai có bệnh cứ mang cứt của mình tới, múc một
bát nước ở cái giếng ấy, đem để cả hai trên bàn rồi thắp hương khấn vái. Đợi
cho cháy hết hương, đem bát nước về mà uống thì bách bệnh tiêu tan.
Ngôi miếu từ đó nổi tiếng, người thiên hạ lũ lượt tìm đến…
Song kì diệu nhất
của miếu là những người đến cúng, không những khỏi bệnh, mà tất cả những gì vốn
giấu kín trong bụng xưa nay, đều bất ngờ ứng vào miệng, lộ ra hết. Người lương
thiện thì chẳng sao, bởi chẳng có gì phải giấu giếm. Còn những kẻ lưu manh, bất
lương, những kẻ chuyên nghề bịp bợm thì đó quả là một đại họa. Cứ tưởng sự thật
một khi đã được giấu trong bụng thì sẽ kín như bưng. Ai dè hàng ngày nó vẫn
theo đường bài tiết ra ngoài. Thế là cùng với sự chữa khỏi bệnh thì sự thật
phơi bày, mặt nạ bị rơi tuột. Khối kẻ khoác áo đạo đức hóa ra lưu manh,
khối vị phụ mẫu hóa bất lương gian ác. Vì thế người tìm đến chữa bệnh thưa dần,
thưa dần. Có kẻ thà chết chứ nhất định không chịu mang cứt đến cầu cúng.
Thế rồi lại sinh ra cái nghề ăn trộm cứt mang đến đền để vạch những chỗ xấu của
nhau. Kẻ trên, người dưới, đồng liêu, đồng nghiệp, hàng xóm láng giềng… Cứ gọi
là loạn cả lên. Cứt té ra lại là chỗ dễ làm bại lộ chân tướng nhất.
Người làng này có tục giấu cứt kể từ hồi đó. Ai cũng lo
phòng xa bởi biết đâu đấy, dẫu mình không tự mang cứt đến cầu, song nhỡ có kẻ
khác lấy trộm, mang đến cúng thì bao nhiêu điều giấu giếm của mình cũng sẽ bị
phơi bày cho thiên hạ biết hết. Vì thế giấu cứt trở thành một cái tục.
Dù sao thì sự hiện diện của ngôi miếu cũng là điều cảnh báo đối với những kẻ
rắp tâm làm điều xấu. Trẻ con được cha mẹ theo dõi, rèn cặp trở nên ngoan
ngoãn. Người lớn đối xử với nhau thân ái, chân tình, không dám hại nhau vì biết
sự thật trong bụng sớm muộn gì cũng sẽ thoát ra bên ngoài. Làng này có tiếng là
một làng văn… văn gì nhỉ? À văn hóa từ đấy!