CẤM CHÓ
Cụ giáo Đản là ông đồ cuối cùng ở
làng tôi, mất từ những năm sáu mươi của thế kỉ trước. Đến bây giờ dân làng vẫn
còn nhớ nhiều câu chuyện về cụ. Chẳng hạn cái hồi ông trưởng thôn quyết định
cấm tiệt việc nuôi chó. Thấy cụ là bậc đức cao, có uy tín trong làng, ông ta
bèn phái một cán bộ tới gặp cụ để thăm dò ý tứ. Cụ bảo:
- Cấm là phải. Chó bây giờ có được
như chó ngày xưa đâu, rặt một lũ khuyển cả. Chó nhà mà cũng hỏng như chó hoang
thì nuôi làm gì cho vừa điếc tai, lại vừa bẩn làng, bẩn xóm.
- Chó bây giờ khác với chó ngày xưa
thế nào hở cụ?
Cụ giáo thong thả
giải thích:
- Ngày xưa chó hoang gọi là
“khuyển”, chó nhà gọi là “cẩu”, phân biệt rõ ràng. Chứ bây giờ thì lẫn lộn,
không biết đâu mà lần.
Anh cán bộ xem ra
vẫn chưa hiểu, lại hỏi tiếp:
- Cháu tưởng “khuyển” hay “cẩu” thì
đều có nghĩa là chó cả. Té ra lại có chỗ khác nhau hở cụ?
- Khác nhau rõ ràng chứ – cụ giáo
kiên trì giải thích – “khuyển” nghĩa là chó. Nhưng là con chó hoang vô chủ, chó
hèn, chó vô giáo dục, chỉ biết sủa lung tung, bậy bạ. Không phân biệt kẻ quen,
người lạ, gặp ai nó cũng cắn. Vì vậy trong chữ Hán, chữ “khuyển” chỉ tượng hình
con chó đang ngồi thè lưỡi mà thôi. Còn “cẩu” cũng có nghĩa là chó, nhưng là
con chó nuôi trong nhà, chó sang, chó phú quý, được dạy dỗ đàng hoàng, biết
phân biệt đâu là chủ, đâu là khách. Nó chỉ sủa theo ý chủ, bảo sủa thì sủa, bảo
im thì im. Một khi nó cất tiếng là sủa có bài bản, có câu cú rõ ràng, gọi là
sủa có văn. Nên chữ “cẩu” bên cạnh bộ “khuyển” (chó) còn có thêm chữ “cú”
(câu), ngụ ý chỉ loại chó biết sủa ra câu…
Anh cán bộ một chữ Hán bẻ làm tư
cũng không biết, mà thực ra đối với anh, chẳng cần thiết phải phân biệt
“khuyển” với “cẩu” đến mức ấy. Chỉ thấy cụ ủng hộ chủ trương của ông trưởng
thôn thì mừng lắm rồi, bèn về báo cáo ngay với ông ta. Thế là tuyên truyền, vận
động, cưỡng chế… khẩu hiệu cấm chó kẻ bằng sơn đỏ khắp các bức tường ngang,
tường dọc. Tối tối học sinh rồng rắn đánh trống ếch, hô quyết tâm tiêu diệt
vang vọng khắp làng. Họ hàng nhà chó sợ xanh mắt mà không hiểu chuyện gì đang
diễn ra. Kết quả các chú khuyển hoặc là bị đem bán, hoặc được cho vào nồi, biến
thành các món hấp, chả, sáo măng, nhựa mận… Chỉ vài ngày sau thì chó tiệt nọc.
Khách tới thấy làng êm ả, thanh bình như thuở nguyên sơ vì không phải nghe một
tiếng sủa nào. Nhưng trước đó còn một chuyện khác, hình như có liên quan tới
cái quyết định cấm đoán kia của ông trưởng thôn.
Số là từ cái hồi ông còn chưa lên
chức. Một hôm dân làng bỗng bắt gặp ông cúi gập người, chĩa mồm vào một con chó
mà ho rũ rượi, ho không sao hãm lại được, ho đến lồi cả mắt ra. Đối diện với
ông, con chó kia cũng đang cong đuôi lên mà sủa lấy sủa để, sủa đến đỏ mặt tía
tai. Cứ một sủa, một ho mãi như thế, chẳng bên nào chịu nhường bên nào, làm ầm
ĩ cả một góc làng. Mọi người kinh ngạc quá, cứ như thể hai bên đang cãi nhau,
hoặc đang tranh luận vấn đề gì to tát lắm. Mà nếu qu thực là cãi nhau thì xem
ra ông có vẻ đang… đuối lý. Bằng chứng là con chó thì vẫn sủa rất hăng, rất
hùng hồn, trong khi tiếng ho của ông thì đã khản dần, mồm mũi bắt đầu phì ra
toàn rãi dớt với bong bóng cá trôi. Rốt cuộc, cụ giáo Đản được mời tới phân
giải xem có phải “họ” đang cãi nhau không. Ông cụ chống gậy đến nghe một lúc
rồi bảo:
- Chẳng ra câu cú gì cả. Thế này
thì không phải cãi nhau. Chắc là do cổ họng anh ta bị dị ứng với tiếng chó sủa
đấy thôi. Cứ đuổi con chó đi là yên hết.
Quả nhiên khi dân làng lấy gậy xua
con chó đi thì ông cũng bặt tiếng ho. Từ đó ông rất ngại tiếng chó sủa, mỗi khi
ra khỏi nhà là phải ngó trước ngó sau, cố làm sao không phải nghe tiếng sủa,
bởi cứ động nghe thấy là ông lại lên cơn ho. Đến khi lên chức trưởng thôn, việc
đầu tiên ông nghĩ tới là làm sao cấm tiệt nuôi chó trong làng. Cả làng có mỗi
mình ông mắc phải cái chứng dị ứng oái oăm ấy, ngộ nhỡ có kẻ độc mồm, độc miệng
thêu dệt, bêu xấu thì làm thế nào. Kết quả làng cấm được chó, phần thắng rõ
ràng nghiêng về phía ông.
Từ đó dễ được mấy chục năm, làng
bặt tăm bóng chó. Đến nỗi thanh niên trong làng phải đợi đến lúc lớn lên đi ra
ngoài đường làm công nhân, hay lên Hà nội học đại học… bấy giờ mới biết mặt mũi
con chó nó ra làm sao. Nghe đâu gần đây làng bắt đầu nuôi chó lại rồi, nuôi rầm
rộ, nhà nào cũng vài ba con. Có điều không biết đó là “cẩu” hay là “khuyển” như
cụ giáo Đản nói ngày trước mà thôi. Nhưng lại nghe nói vị trưởng thôn bây giờ
cũng là con cháu ông trưởng thôn ngày ấy. Không biết cái chứng dị ứng kia có di
truyền không? nếu nó di truyền, thì lại đến lúc “cẩu” hay “khuyển” gì cũng sẽ
bị cấm thôi!
PHẠM LƯU VŨ
PHẠM LƯU VŨ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét